Huyệt Túc tam lý

Huyệt Túc tam lý còn gọi là Hạ Lăng, Hạ Tam Lý, Quỷ Tà, Tam Lý.
Ý nghĩa tên Huyệt Túc tam lý
Theo Trung Y Cương Mục, huyệt ở dưới lõm khớp gối 3 thốn, lại trị bệnh ở 3 vùng: trên, giữa và dưới của dạ dầy (Vị), vì vậy gọi là Túc Tam Lý. Mặt khác, một số cho rằng: châm hoặc bấm huyệt Túc Tam Lý giúp cho binh lính đi bộ được hơn 3 (tam) dặm (lý) mà không bị mỏi. Hoặc Huyệt nằm ở chân (Túc), là nơi hội của 3 phủ: Đại Trường (ở trên), Vị (ở giữa) và Tiểu Trường (ở dưới) vì vậy mới gọi là Tam Lý.
Kinh mạch
– Là huyệt thứ 36 của kinh Túc Dương minh Vị.
– Là huyệt Hợp, thuộc hành Thổ.
– Huyệt quan trọng có thể dùng một mình hay phối hợp điều trị các bệnh thuộc Vị và tất cả các trường hợp trướng đau ở bụng, tiêu hóa rối loạn, các bệnh về mắt, hệ thần kinh, bệnh áp huyết cao. Đây là huyệt có tác dụng toàn thân
– Huyệt đưa khí xuống phần dưới cơ thể.
– Một trong Lục Tổng Huyệt chủ trị vùng bụng đau. Một trong 14 Yếu Huyệt của Châm Cứu Chân Tủy (Nhật Bản) để nâng cao chính khí, trị bệnh dạ dày (nhưng dạ dày dư chất chua thì không dùng huyệt này).
– Một trong nhóm Hồi Dương Cửu Châm có tác dụng nâng cao và phục hồi Dương khí.
Vị trí
Có nhiều cách xác định vị trí huyệt:
– Dưới mắt gối ngoài 3 thốn, phía ngoài xương mác khoảng 1 khoát ngón tay, nơi cơ cẳng chân trước, khe giữa xương chày và xương mác.
– Úp lòng bàn tay vào giữa đầu gối, đầu ngón tay giữa chạm vào xương ống chân (xương chầy), từ đó hơi xịch ra phía ngoài một ít là huyệt.
– Dưới lõm ngoài xương bánh chè (Huyệt Độc Tỵ) 3 thốn.
Giải phẫu
– Dưới da là cơ cẳng chân trước, chỗ bám các thớ gân cơ 2 đầu đùi, khe giữa xương chầy và xương mác, màng gian cốt.
– Thần kinh vận động cơ là nhánh của dây thần kinh hông to, nhánh của dây thần kinh chầy trước.
– Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5.
Tác dụng điều trị của Huyệt Túc tam lý
– Trị bệnh thuộc hệ tiêu hóa: dạ dày đau, nôn mửa, tiêu hóa kém, táo bón, ruột viêm,
– Chi dưới yếu liệt, đau khớp gối, đau thần kinh tọa, đau nhức cẳng chân…
– Cơ thể suy nhược, thần kinh suy nhược.
Kỹ thuật châm
– Châm thẳng 1 – 1,5 thốn, , châm hoặc cứu ngải 10 – 30 phút, cứu 5 – 10 tráng hoặc nhiều hơn.